Phụ thân?

Hầu gia?

Trong đầu ta bỗng có chỗ nào đó như được gỡ nút thắt.

Lập tức, ta xoay người rời khỏi Đạm Vân Trai, đi đến ngoại viện tìm ca ca, sai hắn tra xem gần đây Hầu gia có về kinh hay không, đang ở đâu.

Mấy tháng trước, ca ca ta đã dùng ngân lượng dọn đường, kết giao từ ăn mày, phu khuân vác, tới đám hàng rong, lưu manh nhàn rỗi khắp thành.

Nay ta vừa mở miệng, hắn lập tức đi tìm tin tức.

Qua mấy vòng vặn hỏi, rốt cuộc cũng tìm được chút manh mối.

Mang tin trở về Đạm Vân Trai, ta nhìn gương mặt còn non nớt chưa vướng bụi trần của Lương Yển Thuần, lòng khẽ chần chừ.

“Xuân Tụ, sao thế? Sắc mặt nàng kém lắm, có chuyện gì xảy ra sao?”

Lương Yển Thuần vẻ mặt đầy quan tâm.

Ta thở dài một hơi. Trong lòng tự nhủ, hắn đã đến lúc phải trưởng thành rồi.

Thế là ta đem chuyện nói rõ:

“Mấy ngày nay ta vẫn cảm thấy có điều bất ổn, liền nhờ ca ca dò hỏi, mới biết… Hầu gia đã hồi kinh.”

“Chỉ là đang mang bệnh, nên tạm nghỉ dưỡng ở trang viện ngoài thành, chưa thể nhập phủ.”

Lời ấy vừa dứt, Lương Yển Thuần lập tức run rẩy:

“Vậy ra… đời trước, vì nguyên cớ này, mẫu thân mới thất hứa sinh thần ta? Nhưng sao bà không nói với ta? Ta đâu phải hạng bất nhân bất nghĩa, nếu biết phụ thân lâm bệnh, sao còn cố chấp đòi mừng sinh thần?”

Ta mím môi, có phần khó mở lời:

“Chỉ e Hầu phu nhân sợ chuyện này ảnh hưởng đến tâm tình học tập của ngài. Dù sao thì… bệnh của Hầu gia cũng chẳng được vinh hiển gì… Là chứng hoa liễu.”

Lương Yển Thuần lập tức trừng lớn đôi mắt, ánh nhìn kinh hoàng, không tin nổi.

Danh tiếng phong lưu của Dịch An Hầu sớm đã vang xa.

Những năm nay ông ta du ngoạn khắp nơi, tửu sắc buông tuồng, gần như thanh lâu nhạc viện khắp các châu phủ đều lưu lại dấu bút phong lưu của ông.

Qua trăm hoa, sao có thể không vương lấy một chiếc lá?

Chứng hoa liễu — một khi nhiễm phải, thì thuốc thang vô phương cứu chữa, tuổi thọ giảm sút nhanh chóng.

Nếu Hầu gia mất trước khi Lương Yển Thuần dự khoa cử, tước vị của phủ Dịch An tất sẽ bị giáng thêm một bậc, trở thành Dịch An bá phủ.

Khi ấy, dù Lương Yển Thuần có đỗ công danh, thì việc “phục tước” cũng khó hơn nhiều lần so với “đình giáng”, bởi phải có công tích lưu danh sử sách mới mong được xét phục hồi.

Hầu phu nhân không dám đem chuyện này ra đánh cược.

Bởi vậy mới giấu nhẹm tin tức, liều mạng dốc hết tâm huyết, chỉ mong ép được Lương Yển Thuần đỗ đạt ngay trong một lần, để trước khi phụ thân hắn quy tiên, có thể giữ vững tước vị hầu tước.

Thế nhưng đời trước, Lương Yển Thuần tâm chí mềm yếu, bị Hầu phu nhân bức ép quá gắt, lần đầu dự hội thí năm mười tám tuổi liền thất thủ.

Hầu phu nhân vì thế mà càng thêm hung hãn, không tiếc thân mình, móc thịt chích máu…

Sự bức bách của bà đối với Lương Yển Thuần là từng bước gia tăng, càng lúc càng cuồng loạn.

Người đứng sau thúc đẩy một cách âm thầm, tất chính là Hầu gia đã thọ chẳng còn dài.

“Ta muốn đi thăm phụ thân.”

Lương Yển Thuần đột nhiên bật dậy, định lao ra ngoài.

Ta vội vàng ngăn lại:

“Ngài chớ nôn nóng. Đời trước, mãi đến năm ngài hai mươi mốt tuổi đỗ hội nguyên, cũng chưa từng nghe đến tin dữ của Hầu gia, xem ra hiện giờ người vẫn còn chống đỡ được, ta nên từ từ liệu mà tiến.”

“Ngài nếu lúc này đột nhiên xuất môn, Hầu phu nhân mà biết được, ắt sẽ cho người giám sát chặt chẽ hơn, về sau lại càng khó hành sự.”

“Tiểu Hầu gia, hiện nay điều ngài cần làm là dốc hết tâm can, tập trung vào hội thí sang năm, khi đã công thành danh toại, tự nhiên có cơ hội gặp lại Hầu gia.”

Ta dùng lời nhẹ nhàng khuyên giải, rốt cuộc cũng khiến hắn bình tâm trở lại.

9

Từ khi biết được bao nhiêu bí sự bị che giấu kiếp trước,

Lương Yển Thuần đối với sự nghiêm khắc của Hầu phu nhân, lại không còn phản cảm hay nổi loạn như xưa.

Hắn dường như đã trưởng thành trong chốc lát.

Hiểu được cái khổ bất đắc dĩ và ưu lo của mẫu thân,

Cũng hiểu được trọng trách hắn phải gánh vác cho dòng tộc.

Nhưng điều quan trọng nhất, là hắn rốt cuộc đã tìm ra ý nghĩa của việc khoa cử làm quan.

Mỗi tháng, ta đều nhờ ca ca mang về những tờ tiểu báo dân gian, bên trong ghi chép đầy rẫy nỗi khổ của lê dân, những tranh đấu nơi triều chính.

Những thứ ấy, đời trước Lương Yển Thuần chưa từng thấy qua.

Hắn khi đó, vẫn là đứa con được Hầu phu nhân nâng niu nuông chiều, sống như lơ lửng trên mây.

Hắn vẫn nghĩ, khổ nhất trên đời là giống như hắn — không có tự do, bị người theo dõi khắp nơi.

Nhưng về sau, để tránh né bài vở, hắn bằng lòng cùng ta đổi việc, hắn làm công việc của ta, ta giúp hắn chép sách, luyện chữ.

Đổi qua đổi lại một hồi, hắn mới hiểu,

Hóa ra bóc măng có thể làm nứt cả móng tay,

Hóa ra mùa đông giặt đồ trong nước giếng có thể làm nứt toác da tay,

Hóa ra để nấu được tách trà cúc mà hắn ưa thích, lại phải trải qua biết bao nhiêu công đoạn rườm rà…

Thế nhưng, so với những nỗi cơ cực của bá tánh nơi đáy xã hội mà tiểu báo mô tả, cuộc sống của ta vẫn còn dễ chịu hơn gấp vạn lần.

Bởi họ là những kẻ không cơm ăn, không áo mặc, quanh năm chịu rét chịu đói.

Đọc mãi, nghĩ mãi, cuối cùng một người thuần lương như Lương Yển Thuần đã hạ quyết tâm —

Lấy tâm Thánh hiền làm thuyền chèo, đưa lê dân thoát khỏi nước sôi lửa bỏng.

Nguyện ước này nghe qua tưởng chừng ngây thơ viển vông,

Nhưng lại rất hợp với khí chất Lương Yển Thuần.