Một bóng người tiều tụy, chống tay lên cột hành lang, loạng choạng hiện ra trước cửa đình.

Chính là Tiêu Cảnh Hành.

Hắn đổi sang một bộ vải thô sạch sẽ, là Chu quản sự tìm cho, khoác lên thân càng thêm lộ dáng gầy yếu.

Sắc mặt vẫn trắng bệch, nhưng trong mắt đã có thần sắc.

Hắn đứng cách ta mấy bước, yên lặng nhìn, mang theo một sự dè dặt gần như hèn mọn, rụt rè dò xét.

Ta không lên tiếng, nâng chén trà, khẽ thổi lớp bọt bên trên.

Hắn dường như được ngầm cho phép, hoặc có lẽ đã tích tụ đủ dũng khí, rốt cuộc chậm rãi bước lên hai bước, dừng dưới thềm đá đình.

Giọng nói khàn đục, yếu ớt như bệnh nhân vừa qua cơn trọng bệnh:

“Ta… có thể vào ngồi một lát không?”

Ta ngẩng mắt nhìn hắn, ánh dương rọi lên gương mặt tái nhợt, hắt bóng xuống hai quầng thâm đen nơi mắt, cùng vẻ mỏi mệt sâu không đáy.

Hắn không còn là Thái tử cao cao tại thượng, cũng chẳng phải kẻ điên cuồng tháo cửa chắn đường như dạo trước.

Giờ phút này, hắn chỉ là một nam nhân khốn cùng vì bệnh tật và dằn vặt, vứt bỏ kiêu ngạo mà cầu xin một chốn dung thân.

Im lặng lan ra trong đình.

Chỉ còn tiếng gió lướt qua lá dây leo xào xạc.

Cuối cùng, ta buông chén trà, khẽ gật đầu một cái, nhẹ như gió thoảng.

Đôi mắt Tiêu Cảnh Hành lập tức lóe lên một tia sáng, như kẻ chết đuối bắt được cọng rơm.

Hắn vịn cột đình, bước từng bước chậm rãi trèo lên bậc đá, ngồi xuống chiếc ghế đá đối diện ta.

Từng động tác đều chậm chạp như dùng hết sức lực còn lại.

Sau khi ngồi xuống, hắn cúi đầu, mắt dừng trên làn khói lượn quanh chén trà thanh sứ trên bàn đá, hồi lâu chẳng nói gì.

Bờ vai gầy guộc dưới lớp vải thô nhô lên, cả người mang một khí tức u buồn mỏi mệt.

Trong đình tĩnh lặng.

Ánh nắng ấm áp, mang theo hương cỏ cây nhè nhẹ.

“Cánh cổng kia…” Hắn rốt cuộc mở lời, âm thanh trầm khàn, tựa lò bễ mục nát, “Về sau… ta đã sai người sửa lại.”

Ta không hồi đáp, chỉ nâng chén trà, nhấp một ngụm.

Mùi hoa nhài lan trên đầu lưỡi.

Hắn cũng chẳng trông mong ta trả lời, chỉ cúi đầu, tiếp tục lẩm bẩm như đang thú tội với mặt bàn.

“Lưu Hàm Yên… phụ hoàng gả nàng cho Túc Quận vương làm kế thất. Túc Quận vương… gần sáu mươi rồi.”

Giọng hắn nhạt nhẽo, như đang kể lại sự việc không liên can đến bản thân.

“Giám sát ngự sử… dâng sớ tố ta ngập phủ. Phụ hoàng nổi giận… trách ta cuồng vọng vô đức, không xứng kế vị.”

Hắn giật giật khóe môi, lộ ra một nụ cười cay đắng còn khó coi hơn cả tiếng khóc:

“Chiếu phế Thái tử… là ban ra tháng trước.

Hiện giờ… ta chỉ là thứ dân, bị giam trong… hoàng trang phía tây kinh thành.”

Hắn ngẩng tay lên, theo bản năng sờ về thắt lưng, nơi từng treo ngọc bội bàn long biểu tượng Thái tử.

Nay đã trống trơn.

Bàn tay hắn dừng giữa không trung, rồi lặng lẽ buông xuống.

“Hoàng trang… lớn lắm, nhưng trống rỗng.”

Thanh âm hắn càng lúc càng nhỏ, mang theo tiếng mũi nghẹn ngào cùng nỗi cô độc khó tả:

“Ban đêm… tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng tim mình đập.

Ta thường xuyên… suốt đêm không thể chợp mắt.

Nhắm mắt lại… chỉ thấy bóng dáng nàng ôm phượng quan, quay lưng bước về phía quán vằn thắn.

Dứt khoát như thế…

Càng lúc càng rõ…”

Bờ vai hắn bắt đầu run rẩy, đầu cúi thấp hơn.

Một giọt nóng hổi đột ngột rơi xuống bàn đá, lan thành một vết đậm mờ sâu.

“Vãn Tinh…” Hắn ngẩng phắt đầu, hai mắt đỏ au, nước mắt ào ạt tuôn rơi.

Không còn phong nghi đế vương, cũng chẳng còn cuồng loạn ngày trước.

Chỉ còn lại nỗi đau tuyệt vọng, trần trụi, của một nam nhân mất hết tất cả.

“Ta biết… ta tội đáng vạn chết…

Ta phụ nàng… khiến nàng tan nát…

Ta đáng bị vứt bỏ, trắng tay chẳng còn gì…”

Hắn nghẹn ngào, lời nói lộn xộn, từng chữ như cắt ra từ trái tim rách nát:

“Ta không dám cầu nàng tha thứ…

Ta biết ta không xứng…

Ta chỉ là… chỉ là…”

Hắn khóc đến không thành tiếng, thân thể gầy gò trong ánh dương ấm áp đầu xuân run rẩy tựa lá rụng giữa gió lộng.

Đôi tay từng cầm bút hạ bút phê chuẩn, từng nắm quyền dời non lật biển, nay lại siết chặt lấy lớp vải thô phủ đầu gối, khớp xương vì dùng sức mà trắng bệch.

“Ta chỉ là… không muốn lại không nhìn thấy nàng nữa…”

Hắn dùng hết tàn lực để thốt nên câu cầu xin hèn mọn như bụi đất ấy.

Nói xong, như thể sức cùng lực kiệt, chợt gục đầu xuống bàn đá lạnh buốt.

Đôi vai rộng run lên dữ dội, tiếng nức nở bị đè nén, vỡ vụn, không còn kềm chế nổi, khẽ khàng vang lên trong đình vắng.

Trong đình chỉ còn tiếng khóc rấm rứt, đứt quãng của hắn.

Ánh dương vẫn chan hòa ấm áp rọi xuống.

Bóng dây leo đung đưa nhẹ trên mặt bàn đá.

Ta lặng lẽ ngồi yên, chén trà trong tay đã nguội lạnh.

Hương hoa nhài đã nhạt, chỉ còn dư vị thoang thoảng, mang chút chát nơi đầu lưỡi.

Nhìn hắn gục xuống bàn, đôi vai khẽ run, tựa như một đứa trẻ bị cả thiên hạ ruồng bỏ.

Nơi đồng hoang tĩnh lặng trong lòng ta, cuối cùng cũng bị dòng lệ muộn màng, ào ạt kia đập nứt ra một khe hở nhỏ nhoi.

Không phải cảm động, cũng chẳng phải mềm lòng, mà là nỗi bi thương của cảnh còn người mất.

Từng có một thời, hắn là toàn bộ tinh tú trong trời đêm ta ngước nhìn.

Một ánh mắt, một nụ cười của hắn, đều có thể khuấy động hết thảy vui buồn trong lòng ta.

Lời hứa “vĩnh bất tương phụ” hắn thốt ra đêm đại hôn, từng là cành củi khô duy nhất giữa dòng xoáy hậu cung ta nắm lấy mà cố tồn tại.

Thế nhưng về sau thì sao?

Là lúc Lưu Hàm Yên tiến phủ, hắn siết tay ta trong tay áo, cuối cùng vẫn buông lơi.

Là yến tiệc trong cung, giữa bao nhiêu tông thất, hắn vòng tay ôm eo một nữ tử khác, còn rượu trong chén ta lạnh tanh như tro tàn.

Là lúc vì một gốc nhân sâm, hắn xông vào điện, chỉ tay mắng ta “tâm địa độc ác” bằng ánh mắt dữ dằn chưa từng thấy.

Là khi hắn tháo cửa Đông cung, ngồi trên đống đổ nát, dùng quyền thế ngăn bước chân ta rời đi, ánh mắt lãnh khốc mà cuồng loạn…

Những cảnh tượng ấy, từng khung một, tựa như chông gai bọc độc cắm sâu trong lòng, đã sớm đâm nát vầng sao sáng và hơi ấm thuở đầu, hóa thành băng giá không sao tan nổi.