Việc ấy chẳng mấy chốc đồn ra khắp vùng. Người đến bán thuốc quý ngày một nhiều, kẻ hỏi mua “Thiên Sơn băng liên” cũng lũ lượt tìm tới.
Vài tháng sau, có một thương nhân giàu có từ kinh thành xa xôi vượt đường gió bụi tìm đến, nói muốn mua đóa “băng liên”, mong ta ra giá.
Ta lắc đầu:
“Chỉ là lời đồn truyền miệng, chẳng thể thật lòng tin có thể cứu người. Chẳng hay các hạ mua về để làm chi?”
Thương nhân già từ tốn đáp:
“Năm xưa tại hạ từng lạc bước vào con đường tà đạo, may được đương triều Thái phó điểm hóa, mới quay đầu là bờ.”
“Lão Thái phó có mấy công tử, duy chỉ một nữ nhi, vì tuổi già mới sinh được con gái nên vô cùng cưng chiều.”
“Vài năm trước, Thánh thượng đích thân hạ chỉ ban hôn, gả nàng làm vương phi của Ninh Vương điện hạ.”
“Không ngờ, Ninh Vương điện hạ vốn đã chấp thuận, đột nhiên lại đổi ý, chẳng tiếc thân mang hình phạt, đích thân tới phủ Thái phó xin từ hôn, mình đầy máu me. Thái phó vốn là bậc thanh cao, nghe vậy liền vào cung xin Thánh thượng thu hồi thánh chỉ.”
Ta nghe mà ngẩn người.
Thương nhân già nói tiếp:
“Từ đó, Ninh Vương điện hạ liền nam hạ dẹp giặc, hai ba năm không hề hồi kinh. Tội nghiệp vị tiểu thư kia tình thâm ý trọng, thề chẳng tái luận chuyện hôn sự, ngày đêm u sầu, gần đây bệnh nặng không dậy nổi. Lão Thái phó cầu y khắp nơi, nào ngờ chẳng ai có thuốc hiệu. Nghe đồn chủ nhân họ Giả có bảo vật vô giá, nên tại hạ mạo muội vượt ngàn dặm tới đây, mong có thể giúp được ân nhân năm xưa.”
Ta bất giác thở dài.
Chẳng ngờ sau khi ta rời kinh, lại xảy ra cớ sự như thế…
Thương nhân già khẩn cầu:
“Nghe nói chỉ cần một cánh là có thể phát huy hiệu nghiệm. Chẳng hay Giả chưởng quầy có thể chừa lại một cánh? Tại hạ nguyện trả mười vạn lượng bạc, cầu mong người động lòng trắc ẩn.”
Ta truyền Xuân Thảo mang Thiên Sơn băng liên tới, đích thân hái lấy một cánh.
“Lão trượng, xin người nhanh chóng đưa về. Nghe nói nửa tháng phải chế thành dược, quá thời thì hiệu lực giảm đi nửa phần. Còn có thực dụng hay không, ta cũng không dám chắc.”
Thương nhân già cúi người cảm tạ, quay đầu gọi thủ hạ mang ngân phiếu dâng lên.
Ta mỉm cười xua tay:
“Không cần đâu.”
Thương nhân ngẩn ra, bất an hỏi:
“Chẳng hay chưởng quầy có việc gì cần nhờ lão Thái phó? Tại hạ nhất định sẽ chuyển lời để người ghi nhớ ơn sâu.”
Ta lắc đầu, đáp:
“Không. Ta với Ninh Vương điện hạ… chỉ là cố nhân mà thôi.”
Thương nhân già như hiểu mà chưa tỏ, cuối cùng cung kính chắp tay cảm tạ rồi cáo từ.
Đêm hôm ấy, ta trằn trọc khó ngủ.
Hôm sau, ta sai người dưới âm thầm dò la tin tức của Ninh Vương.
Mùa đông giá lạnh đang tới, tuyết lớn phủ đầy trời.
Ta ngồi trên giường sưởi ấm áp, một tay chơi cờ với con trai, một tay cùng con gái cắt giấy làm hoa.
Phụ thân ta ngồi một bên gật gù ngủ gật, tiếng ngáy vang vọng không dứt.
Bỗng dưng một luồng gió lạnh thốc vào từ ngoài cửa!
“Chủ tử, không ổn rồi! Nghe nói người Bắc Địch tụ tập đông nghịt ở gần biên thành, hình như muốn công thành!”
Phụ thân ta bị dọa đến bừng tỉnh, cả người run lên cầm cập.
“Sắp… sắp đánh giặc rồi sao?”
Ta chau mày, bình tĩnh hạ lệnh:
“Lập tức đóng chặt toàn bộ cửa hàng và cửa sổ, tất cả vật quý đều đem giấu vào mật thất rồi phong lại. Lương khô và thịt khô của nhà ta chia làm năm phần, tìm chỗ kín đáo mà cất.”
Sau đó, ta bảo hộ vệ đi mua thêm mấy con bò sữa và dê đang cho sữa từ nhà dân, để dành cho con trai và con gái.
Mười mấy ngày sau, quả nhiên biên thành khai chiến!
Trời đông giá rét, ta dẫn phụ thân và hai đứa nhỏ lên núi lánh nạn.
Động núi là do một lão thợ săn quen thuộc chỉ dẫn, rộng đến một mẫu đất, lại kín gió và ấm áp.
Bọn hộ vệ chia nhau giữ lại trông nom các tiệm và nhà cửa trong thành, chỉ để vài chục người theo bảo vệ gần bên ta.
“Chủ tử!” Một hộ vệ đội gió tuyết chạy tới bẩm báo:
“Mấy ngày qua, tướng giữ thành là Lý tướng quân cùng các binh sĩ cố thủ thành môn. Chỉ tiếc là thế giặc quá mạnh, binh lực không cân, lương thực cạn kiệt, e là đêm nay không cầm cự nổi. Nghe đâu quân triều đình đang trên đường tới, nhưng e rằng không kịp!”
Ta nheo mắt lại, dặn phụ thân trông nom kỹ hai đứa nhỏ:
“Lưu lại hai mươi người bảo hộ lão gia cùng tiểu công tử, tiểu cô nương. Những người còn lại theo ta nhập thành. Mang theo binh khí, lương thực, cộng thêm hai mươi bao dược liệu, chúng ta tới viện trợ Lý tướng quân!”
Chúng hộ vệ đồng thanh ứng tiếng.
Phụ thân ta nước mắt lưng tròng, muốn nói lại thôi:
“…Con phải cẩn thận, nhớ sớm quay về.”
Ta ôm lấy ông, lại hôn nhẹ hai đứa nhỏ, dẫn theo mấy trăm hộ vệ vội vã lên đường.
Dân trong thành, phần lớn đều có nhà cửa ở đây, người bỏ chạy chẳng mấy, thấy ta dẫn người đi viện trợ cũng lũ lượt kéo nhau tới tiếp ứng ở cổng thành.
Chiến bào của Lý tướng quân đầy máu, tuổi đã ngoài năm mươi mà ánh mắt vẫn sáng quắc, khí thế như nuốt trời.
Ngài nhìn ta đầy cảm kích, rồi chắp tay thi lễ trang trọng:
“Đa tạ Giả huynh đệ! Tấm lòng trung quân ái quốc của các người khiến tại hạ cảm động vô cùng! Chờ khi diệt sạch đám tiểu nhân dưới thành, ta nhất định cùng mọi người uống một trận say không về!”