Sau hơn một tháng quan sát, ta đoán, nó vốn cũng là con nhà tử tế.

Bởi vì… nó rất giống ta khi xưa.

Không dám bước ra khỏi bóng tối, không dám để lộ dung mạo, chỉ dám lặng lẽ cố gắng sinh tồn trong vùng ánh sáng lưng chừng mong manh nhất.

Ta như nhìn thấy chính mình bảy năm trước, vừa chạy loạn ra khỏi quê nhà.

Hôm ấy, ta hướng về phía tiểu ăn mày, khẽ vẫy tay gọi:

“Lại đây, ta nấu cho con một bát hoành thánh.”

Đôi mắt đứa nhỏ lập tức sáng bừng, nhưng rồi lại cúi đầu xuống:

“Cảm ơn dì, nhưng con không có tiền, không cần đâu.”

Ta bèn đổi cách nói:

“Vậy thì… uống một bát canh nóng đi.”

Lâm An cuối thu đã bắt đầu lạnh, một bát canh nóng xuống bụng cũng đủ sưởi ấm cả người.

Tiểu ăn mày ngẩng đầu nhìn ta một cái, rồi quay người bỏ chạy.

Ta hơi sững người, nhưng vẫn nấu bát hoành thánh ấy.

Biết đâu… nó sẽ quay lại thì sao?

13

Tiểu ăn mày quả thật đã quay lại.

Nó chìa tay ra trước mặt ta, nghiêm túc nói:

“Dì ơi, con đã rửa tay sạch rồi, sẽ không làm bẩn chén của dì đâu.”

Ta khẽ thở dài, thành thục vớt hoành thánh đã nấu chín ra bát, rắc thêm hành hoa, dầu mẫu thân, lại gắp vài sợi thịt từ xương heo ninh bỏ vào.

“Ăn đi.”

Tiểu ăn mày nhìn tô hoành thánh đầy ắp trước mặt, ánh mắt ngập ngừng, ngẩng lên nhìn ta.

Tim ta bất giác mẫu thânm nhũn, lại nghĩ tới Cố Tuế Yến.

Nó kén ăn, nên ta thường phải nghĩ đủ cách nấu món ngon cho nó.

Mỗi bữa ăn, đều phải dỗ dành mới chịu ăn ngoan.

“Cứ yên tâm ăn, dì không lấy tiền đâu.”

Lúc này, nó mới bắt đầu ăn ngấu nghiến.

Ta chống cằm nhìn nó, trong lòng dội về hình ảnh thuở nhỏ — mỗi khi dọn gánh hàng xong, mẫu thân ta sẽ nấu cho ta một bát hoành thánh nóng.

mẫu thân từng nói, trước khi đi ngủ phải ăn no bụng.

Bởi vì… không ai muốn chết đi trong đói khát.

Vì chẳng ai biết, ngày mai loạn quân có tràn tới thành hay không.

“Dì ơi, cảm ơn dì.”

Tiểu ăn mày uống sạch cả nước canh, hai tay nâng bát trả lại ta.

Ta nhìn ánh mắt sáng trong của đứa trẻ ấy, trong lòng bỗng mềm nhũn. Ta cất giọng hỏi:

“Con bao nhiêu tuổi rồi? Từ đâu tới?”

Có lẽ vì nhìn ra ta không có ác ý, đứa nhỏ ngoan ngoãn đáp lời:

“Con từ phương Bắc tới, năm nay năm tuổi. Cha và các anh đều chết trận, mẫu thân không chịu tái giá, dắt con chạy về phương Nam. Nửa năm trước, chỉ còn lại một mình con.”

Ta còn chưa kịp để tâm tới nỗi buồn trong câu nói, đã kinh ngạc hỏi:

“Con là… con gái?”

Phu quân mất thì nương theo con.

Nếu là bé trai, có lẽ mẫu thân nó đã không phải tha hương đến vậy.

Tiểu ăn mày gật đầu:

“Con tên là Trân Nương, là con gái.”

Ta sững người một lúc. Không ai biết rằng, trước khi Cố Tuế Yến chào đời, ta đã từng mong mỏi nhất là có một bé gái.

Con gái của ta…

Ta sẽ nấu cho nó món hoành thánh ngon nhất thế gian, sẽ tự tay may cho nó những bộ xiêm y xinh đẹp nhất.

Ta sẽ dạy nó mọi thứ ta biết.

Phu quân của nó sẽ dạy chữ cho nó.

Nó sẽ là bảo vật trong tay của vợ chồng ta.

Mà số phận của Trân Nương… lại giống ta đến lạ lùng.

Ta sao có thể không động lòng?

Ta cũng từng ước, sẽ gặp được một người tốt, dang tay che chở cho mình, cho ta một mái nhà không mưa không gió.

Chỉ tiếc… ta khi đó, đã gặp sai người.

Ta không nói gì, Trân Nương tưởng mình lỡ lời, rụt rè đứng sang một bên, không dám nhìn vào mắt ta.

Một lúc lâu sau, ta mới nghe thấy chính mình lên tiếng:

“Trân Nương, con có muốn về nhà với dì không?”

Cứ xem như… ta đang cứu lấy một Hứa Mãn Nương của năm xưa.

14

Ở Đại Chiêu, muốn nhận nuôi một đứa trẻ, phải có thu nhập ổn định hoặc đất canh tác.

Ta cần một cửa tiệm.

Lúc này, ta thấy may mắn vì trước giờ mình không tiêu xài phung phí.

Trước tiên, ta đưa Trân Nương về nhà, cẩn thận tắm rửa cho con bé.

“Trân Nương, bây giờ dì chưa có đủ tiền để mua cửa tiệm, đợi dì dành dụm thêm chút nữa, rồi sẽ dẫn con đến quan phủ đăng ký nhập hộ.”

Khi ta đang lục tìm mấy bộ quần áo ngày bé của mình, bên cạnh liền duỗi ra một bàn tay nhỏ gầy gò đen sạm.

Lòng bàn tay ngửa lên, đặt một chiếc khóa bình an cũ kỹ.

“Dì ơi, cái này cho dì, con chỉ còn mỗi thứ này thôi.”

Ta ngẩng đầu, bắt gặp ánh mắt kiên định của Trân Nương.

Bàn tay lớn nhẹ nhàng khép lại ôm lấy bàn tay nhỏ bé ấy, Trân Nương sợ làm ta đau, không dám giãy ra.

“Đứa trẻ ngoan, đây là thứ cha mẹ để lại cầu bình an cho con, giữ lấy mà làm kỷ niệm.”

“Chúng ta cùng nhau dành dụm, đừng sợ. Dì sẽ không bỏ rơi con đâu. Cứ coi như con làm phụ việc cho dì, còn ăn uống thì dì lo.”

“Dì không có bản lĩnh lớn lao gì, nhưng nuôi con no bụng vẫn làm được.”

Trân Nương ôm lấy ta, òa khóc nức nở.

Ta nhẹ nhàng vỗ lưng con bé, miệng khe khẽ hát khúc ru xưa mẫu thân từng dỗ ta ngủ:

“Con ơi ngủ ngoan, mẫu thân nhẹ tay đưa…”

15

Dưới chân thành, đám thương nhân bỗng nhận ra, bên quầy hoành thánh của Hứa nương tử xuất hiện thêm một tiểu cô nương.

Cô bé ấy gầy gò, làn da sạm nắng, nhưng đôi mắt lại sáng trong vô cùng, lúc nào cũng nở nụ cười niềm nở chào khách.

“Ủa Hứa nương tử, cô bé này là người nhà cô à?”

Ta cảm nhận được ánh nhìn căng thẳng từ phía Trân Nương, mỉm cười đáp:

“Là muội muội của ta — Hứa Trân Nương.”

Thực khách lập tức phá lên cười ha hả:

“Vậy là chuyện vui lớn rồi! Chúc mừng, chúc mừng nhé, chưởng quầy!”

Chiến loạn mấy năm, người thân ly tán vô số, có thể còn sống trở về… đã là điều tốt đẹp nhất trong mắt bọn họ.

Trân Nương lúc này mới dần thả lỏng, môi khẽ nở nụ cười, càng ra sức chào mời thực khách.

Con bé nghĩ: chỉ cần bán được nhiều hoành thánh hơn, tỷ tỷ sẽ sớm có đủ tiền đưa mình về nhà thật sự.

Dần dà, khách quen ai cũng biết, cổng thành có một đôi tỷ muội bán hoành thánh.