Thư là do Vệ Hàn – tướng thủ thành U Châu – viết, nói rằng tuyết lớn đổ xuống, Khương Vô thừa cơ xâm nhập, mấy nghìn binh sĩ bị vây khốn trong thành, lương thảo cạn kiệt, chỉ còn cố thủ được bảy ngày.

Gần thành U Châu nhất là thành Nhã, nơi quân ta đóng.

Nhưng bức thư này đã quá hạn, trên đường tới đây ta cũng chưa thấy đoàn lương thảo nào.

Chỉ e trong thành có điều mờ ám.

Đêm ấy, ta và Khánh Cát dẫn hai mươi tinh binh, đột nhập thành, không tốn chút sức lực đã tìm được thành chủ đang ngáy ngủ say sưa.

Tên đó thân hình gầy gò yếu đuối, chẳng có chút dáng tướng soái, thấy đao kiếm liền sợ đến tè ra quần.

Ta chẳng phí bao công sức mà trói được hắn.

Hỏi ra mới biết, hóa ra phụ thân hắn mới là thành chủ, tháng trước bệnh chết, mới truyền vị lại cho hắn.

Hắn đến binh khí còn chưa từng chạm tay, nhận được huyết thư của Khương Vô thì sợ đến mất hồn, không dám điều binh cứu viện.

Ta trói hắn lại, trích từ kho lương nhà hắn đủ lương thực, thúc ngựa chạy gấp về U Châu.

Ta để Khánh Cát ở lại, chỉ dẫn theo một trăm kỵ binh xuất phát.

Lại để ông viết một phong thư gửi kinh thành báo cáo tình hình.

Nếu mười ngày ta chưa trở về, thì hãy đến tìm.

Một đoàn người, đội gió tuyết mà đi, ngựa chết không biết bao nhiêu, cuối cùng cũng đến được U Châu sau ba ngày hành trình gấp rút.

Nào ngờ chưa kịp đến gần Tây môn, đã bị một nhóm người bao vây.

Ngựa hí vang, binh khí chạm nhau loảng xoảng.

Có người hô hoán kinh hãi:

“Là người Khương Vô!”

12

Chỉ là một phen kinh động vô ích.

Vệ Hàn chờ mãi không thấy lương thảo, bất đắc dĩ phải gửi thư cầu cứu tướng biên ải – Mạnh Trọng Giang.

Binh mã tới nơi cũng phải mất bảy ngày.

Quân và dân trong thành đều đói khổ, hắn đành liều mạng, khoác áo người Khương Vô ra ngoài dò xét tình hình.

Ta giải thích rõ sự tình, nói thành chủ Nhã Thành nhát như chuột, không chịu xuất binh cứu viện.

Vệ Hàn nghe xong liền mắng chửi thô tục.

Ta đưa lương thảo đến nơi, đang định dẫn người rời đi, thì có lính trinh sát đến báo:

“Bẩm tướng quân! Hai mươi dặm ngoài cổng chính có quân tiếp viện xuất hiện, là quân kỳ nhà họ Mạnh!”

Vệ Hàn mừng rỡ như điên:

“Tốt! Truyền lệnh toàn quân chỉnh đốn đội ngũ, chuẩn bị nghênh địch chính diện, cùng Mạnh gia quân đánh úp từ hai phía!”

Lính lập tức lĩnh mệnh rời đi.

Hắn lại quay đầu bảo ta:

“Ngươi cũng chớ đi vội, đợi đánh thắng trận này rồi, chúng ta cùng nhau ăn mừng một bữa!”

Giờ muốn rời đi e cũng chẳng dễ, ta đành theo Vệ Hàn vào thành.

Có Trấn Quốc Đại tướng quân Mạnh Trọng Giang tọa trấn, trận chiến này, tất thắng.

Đến khi chỉnh đốn xong mọi thứ, đã là ngày hôm sau.

Rốt cuộc ta cũng gặp được vị danh tướng vang danh bốn phương ấy.

Ông ấy trải qua phong sương, vài sợi tóc bạc lộ ra từ dưới chiến mũ, trông như nhuộm sương tuyết.

Tuổi tác của ông, cũng xấp xỉ phụ thân ta, vậy mà đã nhuốm phong sương đến thế.

E rằng ánh mắt ta nhìn quá lộ liễu, Mạnh Trọng Giang từ phía sau những chén rượu nâng lên, ngẩng đầu nhìn sang.

Ta vận chiến giáp, không trang điểm điểm tô, nhìn kỹ liền biết là nữ tử.

Giáp trụ trên người ông theo từng bước đi phát ra tiếng vang va chạm “leng keng”:

“Trong quân lại có nữ tử làm quan ư?”

Ta hành nam lễ, cất tiếng chào:

“Mạnh tướng quân.”

Ông hỏi tiếp:

“Ngươi là nữ nhi nhà ai?”

Ta đáp thực:

“Gia phụ là Tạ Tấn.”

Ông ngẩn ra:

“Tạ Tấn ở kinh thành ấy sao?”

Vệ Hàn – e là cũng từng gặp phụ thân ta – cũng tròn mắt ngạc nhiên:

“Tạ Tấn có đức hạnh gì mà có được nữ nhi như ngươi!”

Ta cười khổ.

Mạnh Trọng Giang lại hỏi:

“Binh mã kinh thành, sao lại chạy tới biên ải của ta?”

Ta nghe ra ý trách móc trong lời ông, bèn thuật lại đầu đuôi.

Ông bỗng cười lớn:

“Tốt! Có gan dạ, chỉ sợ vị trong hoàng cung kia mà biết chuyện, không biết có cho ngươi lấy công chuộc tội được không.”

Ta hiểu hàm ý trong lời ông — bắt giặc phản nghịch, hộ tống lương thảo. Mong là vậy.

Hôm ấy, Mạnh Trọng Giang dẫn quân tiến về Nhã Thành, xử lý chuyện phản nghịch.

Mười ngày sau, Khánh Cát dẫn người còn lại trở về U Châu.

Hai người họ hình như là cố nhân, song lại chẳng hợp tính.

Cũng đúng, Mạnh tướng quân nghiêm khắc như thế, ắt thấy Khánh Cát lắm lời cợt nhả.

Giữa đông giá rét, tuyết mỗi lúc một dày, muốn về kinh lúc này chẳng dễ.

Mà kinh thành cũng chẳng gửi lấy một tin.

Ta và Khánh Cát quyết định theo Mạnh Trọng Giang đến vùng biên ải.

Cuộc sống trấn thủ nơi biên thùy cứ thế trôi qua.

Sang tháng năm năm sau, mặt đất cuối cùng cũng bắt đầu lộ ra những mầm non mới.

Mạnh Trọng Giang dạy ta binh pháp chiến lược, dạy ta kiếm thuật, dẫn ta theo xuất chinh.

Núi tuyết, băng hà, chiến mã, mãnh thú — mọi thứ vừa tự do, vừa tàn khốc.

Ta đã thấy chiến trường thật sự, đã giết người Khương, giết cừu, săn sói trắng, thậm chí còn đỡ đẻ cho một phụ nhân lâm bồn ngã gục giữa tuyết.

Khánh Cát bảo ta:

“Mặt mũi đổi cả rồi. Quý nữ kinh thành hóa thành dã nhân nơi biên ải.”

Cứ như thể ta sinh ra là để sống ở nơi này vậy.

Ta cáo biệt Mạnh tướng quân, cáo biệt những binh sĩ mặt lạnh tim ấm, cáo biệt các phụ nhân chất phác nhiệt tình.

Rõ ràng chỉ mới nửa năm, lại như đã sống trọn một đời.

13

Thư từ kinh thành gửi đến: về gấp, trong nhà có biến.

Tháng bảy, ta trở lại kinh thành.

Kinh thành vẫn phồn hoa như xưa, hàng hóa phong phú, người người mặt mày rạng rỡ.

Nhưng lọt vào mắt ta, lại lạnh lẽo hệt như tuyết trắng nơi biên ải.

Kẻ ăn mày nơi đầu phố không ít hơn xưa.

Ta lấy mấy đồng tiền đồng trên người, mua vài cái bánh chia cho bọn nhỏ.