Người ta bảo, ngài hình như… đang tìm một người.
Mỗi lần nghe, ta chỉ cúi đầu thấp hơn, tay càng gắng sức vò sạch đám rau trong bồn gỗ chất cao như núi.
Bùn bám đầy móng tay, tay thô ráp ngâm trong nước lạnh đến trắng bệch, nhăn nheo.
Tên ấy, người ấy,tựa một cái gai cắm sâu tận tâm khảm.
Không chạm thì thôi, chỉ cần động đến, liền đau như khoét tim.
Ngày qua ngày,Lá ngân hạnh trong am vàng úa rồi rụng.
Gió cuối thu mang theo hàn khí len lỏi.
Chiều hôm ấy,Ta đang ôm một bó củi lớn từ sau núi trở lại nhà bếp.
Củi nặng, ép đến nỗi ta thẳng lưng không nổi, tầm nhìn cũng bị che khuất.
Rẽ qua vách điện Phật, suýt nữa đâm phải một người.
“Thất lễ…”
Ta theo bản năng lên tiếng xin lỗi, nghiêng người định bước tránh sang.
Người kia không nhúc nhích.
Ta ngạc nhiên, khẽ ngẩng đầu.
Ánh tà dương rọi qua nhánh ngân hạnh trụi lá,ánh vàng rưới đầy lên thân ảnh của hắn…
Hắn vận một chiếc trường y bằng vải bông chàm đã cũ, giặt đến bạc màu, nơi tay áo còn có một miếng vá nhỏ khó thấy.
Tóc chỉ vấn gọn bằng một chiếc trâm gỗ thường.
Dáng dấp phong trần, trên mặt phảng phất nét mỏi mệt vì đường xa dặm dài.
Chẳng có nghi trượng vang dội mở đường, chẳng có cẩm bào ngọc đai uy nghi quyền thế.
Là A Triệt.
Hắn lặng lẽ đứng đó, nhìn ta, nhìn tấm lưng ta cong vì ôm bó củi, nhìn bộ áo vải thô lấm lem bụi tro, rác vụn, nhìn đôi tay thô ráp sưng đỏ vì lao động.
Trong tay hắn, nắm chặt một vật.
Chính là chiếc bát sứt miệng năm xưa ta để lại.
Ánh mắt chạm nhau.
Thời gian như đông cứng.
Tiếng chuông khóa chiều nơi chánh điện vang lên ngân dài, khiến mấy con quạ lạnh sợ hãi vụt bay.
Hắn chậm rãi bước đến, bước chân nhẹ mà như đạp thẳng vào tim ta.
Đến trước mặt, hắn đưa tay, chẳng phải đỡ bó củi, mà chỉ khẽ khàng phủi một cọng cỏ khô vướng nơi tóc mai ta.
Động tác vụng về, mang theo một sự cẩn trọng hiếm hoi như đã lâu lắm rồi không dám thân cận.
“Vận Ngọc,” hắn cất tiếng, giọng khàn đặc, như bị giấy nhám mài mòn qua năm tháng, “ta… đã trở về.”
Hắn ngừng lại, ánh mắt rơi xuống bó củi trong lòng ta, rồi lại dừng trên gương mặt ta.
Trong ánh mắt kia, có mỏi mệt khó che, có đau đớn của việc mất rồi mới được lại, và có cả một chút… khiêm cung đến đáng thương.
“Cái cối đá trong nhà… một mình ta… đẩy chẳng nổi.”
Bó củi trong lòng ta, rơi xuống đất loảng xoảng.
Chuyện ở Thanh Châu, như một hòn đá lớn ném vào mặt hồ tĩnh lặng, dậy sóng trùng trùng rồi cũng phải lắng xuống.
Triều đình phái tân tri phủ và thông phán đến.
Cục diện hỗn loạn do bọn Hồ Văn Hoán gây ra, bị thanh lý mạnh tay, rất nhanh khôi phục yên ổn.
Ai cần bắt thì bắt, ai cần điều tra thì điều tra, ai cần xoa dịu thì xoa dịu.
Hiệu suất làm việc nhanh đến giật mình.
Còn trung tâm của cơn lốc ấy, vị tân nhiệm thủ phụ quyền khuynh thiên hạ kia, lại như một trận gió, khi bụi lắng xuống thì cũng âm thầm biến mất.
Không có nghi trượng rầm rộ tiễn biệt, không có quan lại nghênh đón tiễn đưa.
Chỉ có một cỗ xe ngựa phủ vải xanh giản dị, trong buổi sớm mù sương, lặng lẽ rời khỏi cửa bắc thành Thanh Châu.
Người đánh xe là một hán tử trung niên mặt mũi cương nghị, ít nói, thỉnh thoảng vung roi lại để lộ cổ tay có một vết sẹo dữ tợn cũ.
Ngồi bên càng xe là một hộ vệ áo xám, tướng mạo bình thường nhưng ánh mắt thì cực kỳ cảnh giác.
Bên trong xe yên tĩnh lạ thường.
Ta tựa vào vách xe lót đệm bông dày ấm, trên người khoác áo choàng lót lông chuột bạc vừa dày vừa ấm.
Loại vải này, loại may mặc này, trước đây ta có nằm mộng cũng không dám chạm tới.
Mặc lên người giờ đây chỉ thấy nặng trĩu, ngột ngạt khó thở.
Đối diện, A Triệt… không, bây giờ phải gọi hắn là Thanh Triệt… ngồi nghiêm chỉnh.
Hắn đã thay bộ áo vải chàm thành trường sam màu sẫm cắt may vừa người, chất vải là vân cẩm hảo hạng, ánh tơ ẩn hiện.
Tóc cũng được vấn lại bằng trâm ngọc trắng mượt.
Chỉ là sắc mặt vẫn còn tái nhợt, dưới mắt có quầng xanh nhàn nhạt, dấu vết rõ ràng của những ngày vất vả không ngủ.
Trong tay hắn cầm một cuộn công văn, mắt dán vào đó mà đã lâu chẳng lật thêm một trang nào.
Trong xe chỉ còn tiếng bánh xe lăn đều trên quan đạo.
Hắn bỗng đặt công văn xuống, mở chiếc hộp gỗ mun giản dị bên cạnh, lấy ra một vật.
Là chiếc bát sứt miệng của ta.
Miệng bát sứt vẫn bén như cũ, thân bát còn lưu lại một đường rạn nhỏ ta vô ý làm nứt từ xưa.
Nhưng bát đã được lau sạch sẽ, dưới ánh sáng lờ mờ trong xe, tỏa ra ánh gốm mộc dịu dàng.
Ngón tay thon dài của hắn, mang theo sự trân trọng gần như thành kính, nhẹ nhàng vuốt ve miệng sứt, ánh mắt khó tả, phức tạp.
“Chiếc bát này…” cuối cùng hắn mở lời, giọng trầm thấp, “cùng ngươi… đã chịu nhiều khổ nhọc.”
Ta không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn đồng ruộng trơ trọi ngoài cửa xe đang vùn vụt lùi xa.
Những ngày tháng khốn cùng, vật lộn để sống, như một giấc mộng xa xôi và mơ hồ.
“Năm xưa sau miếu…” hắn dừng một lát, như đang chọn từ, hay như cố gắng lục lại hồi ức mịt mùng, “nửa bát cháo ấy… rất đắng.”
Hắn ngẩng đầu, ánh mắt xuyên qua bóng tối trong xe, đậu lại trên gương mặt ta, chuyên chú đến nỗi khiến người nghẹt thở.
“Nhưng uống vào… thì ấm. Chính cái ấm đó… đã cứu mạng ta.”
Hắn cúi đầu, nhìn chiếc bát trong tay, đầu ngón tay miết theo vết rạn:
“Về sau, ở lò đậu, ở quán nhỏ của chúng ta… đẩy cối đá rất mỏi, tay phồng rộp.”
“Cắt đậu phải cẩn thận, sợ cắt lệch, hình xấu, nàng không vui.”
Khóe miệng hắn như nhếch lên một tia cười, rất mỏng, thoáng cái tan đi.
“Ban đêm về cái nhà rách bốn phía dột gió, nghe tiếng mưa dột từ mái… mà lòng lại… rất yên.”