13
Cái thai được giữ lại một cách khó khăn.
Nhưng để tránh nguy cơ sảy thai, Ninh Tịch buộc phải nằm dưỡng thai đến khi sinh.
Cả hai bà mẹ thay phiên nhau đến chăm sóc.
Ninh Tịch sợ Thẩm Chuật đi tìm Su Su, nên ngày nào cũng bám chặt lấy anh.
Hai bà mẹ thì ngày ngày kè kè bên anh, không rời nửa bước.
“Con nhỏ Su Su đó có gì tốt chứ? Nhìn là biết không phải người đứng đắn!”
“Đã chẳng có cha mẹ, sau này có thể giúp được con được cái gì?”
“Cũng may là con nghĩ đến tình nghĩa từ bé với Tịch Tịch mà chịu nhận lấy nó, chứ không thì chẳng biết đến bao giờ mới đá được cái loại đàn bà dai như đỉa kia!”
Thẩm Chuật sững người.
“Vậy là… tất cả mấy người đã lên kế hoạch sẵn từ lâu rồi.”
“Nhưng… chẳng phải mẹ từng nói, chỉ là dọa cho Su Su một cú để con giành thế chủ động trong tình cảm thôi mà?”
“Mẹ không nói thế, con chịu nghe theo chắc?” — Mẹ Thẩm thản nhiên đáp.
Cả người Thẩm Chuật choáng váng.
Thì ra… Su Su đã nhìn thấu tất cả những điều này từ lâu.
“Dù sao thì mẹ cũng mặc kệ. Tịch Tịch đã mang thai, con nhất định phải cưới nó.
Cả đời này mẹ chỉ nhận một người con dâu — chính là nó.”
14
Tôi đã đến Syria.
Cũng giống như các tình nguyện viên khác, tôi đến đây để cứu giúp những người sống sót dưới làn bom đạn.
Nhưng tôi không ngờ mình sẽ lại gặp Kỷ Hoài Xuyên một lần nữa.
Trong khu trú ẩn chật hẹp này, đội của chúng tôi vì ra ngoài lấy thuốc mà bị cắt đứt đường lui, đã kẹt ở đây suốt ba ngày.
Đạn gần cạn, lương thực sắp hết.
Để tiết kiệm sức lực và số bánh lương khô còn lại, phần lớn thời gian chúng tôi đều ngủ.
Trong một lần thiếp đi mơ màng, cánh cửa bất ngờ bị đá bật ra.
Một người đàn ông mặc quân phục ngụy trang sải bước tiến vào, túm lấy tôi từ mặt đất kéo dậy:
“Đi!”
Những người khác cũng bị gọi dậy, lục tục lao ra ngoài.
Chỉ có tôi là khựng lại, ngơ ngác nhìn gương mặt có vẻ quen thuộc kia.
Cho đến khi anh ta lau mặt, giữa hàng lông mày và ánh mắt đó, tôi mới thấy được bóng dáng quen quen.
Sững người.
“Sao anh lại ở đây?”
“Sao? Việc tốt chỉ mình Tổng giám đốc Tô cô được làm, còn người khác thì không à?”
“Không, ý tôi là…”
Chưa nói hết câu, tôi đã bị anh ta đẩy mạnh vào góc tường.
Bụi đất lả tả rơi xuống, mùi vị nam tính xộc thẳng vào mũi.
Rồi chẳng để tôi kịp phản ứng gì, anh ta lại kéo tôi lao về phía trước.
Tối hôm đó — cái đêm pháo hoa rợp trời ấy — tôi đã từng cảm ơn Kỷ Hoài Xuyên. Cũng từng hỏi anh vì sao lại làm vậy.
Nếu tôi không biết chuyện, hoặc nếu tôi nhịn Ninh Tịch thêm một chút nữa, rồi sau đó bùng nổ với Thẩm Chuật — thì với tư cách một đối thủ cạnh tranh, đó mới là kết cục có lợi nhất cho anh.
Khi ấy, anh kẹp điếu thuốc chưa đốt giữa hai ngón tay, cùng tôi ngồi lặng nhìn pháo hoa ngoài cửa sổ:
“Chỉ là hơn em vài tuổi… không đành lòng thấy em gửi gắm nhầm người.”
Tôi không tin lời ấy.
Người hơn tôi vài tuổi thì đầy, những cặp vợ chồng hợp tác rồi tan vỡ cũng không ít, sao không thấy anh tốt bụng với ai khác?
Chúng tôi đều là người lớn, anh không nói thêm, tôi cũng không hỏi tiếp.
Mãi đến khi tôi quyết định bán cổ phần, Kỷ Hoài Xuyên lại xuất hiện rất nhanh chóng.
Dù sao đó cũng là công ty tôi đã tự tay gây dựng. Tôi không muốn nhìn thấy nó bị biến dạng trong tay người khác.
Nhưng do định hướng điều hành hai công ty khác biệt, nên trong hợp đồng chuyển nhượng có điều khoản bảo mật.
Nếu không có tình huống đặc biệt, anh không được phép can thiệp.
Chỉ là, tôi không ngờ chính Thẩm Chuật lại là người phá hỏng mọi thứ.
15
Về đến căn cứ, sau khi băng bó vết thương và phát đồ ăn cho người dân xong, tôi lại nhìn thấy Kỷ Hoài Xuyên.
Anh đứng ngoài cửa hút thuốc, thấy tôi đến thì chủ động dập điếu thuốc.
“Khi nào cô về?”
“Còn anh?”
Anh nhìn tôi chằm chằm, không trả lời.
Tôi hơi bối rối.
Ánh mắt này tôi không lạ, nhưng thật sự khó hiểu.
Tôi với anh ta gần như không giao thiệp, đến lời xã giao còn chưa nói được mấy câu, nói gì đến chuyện tình cảm.
“Tổng giám đốc Kỷ, chúng ta…” — tôi giơ hai tay lên, định xua tan bầu không khí gượng gạo.
Anh thu lại ánh nhìn, bỗng nói:
“Ngày mai.”
Tôi nhẹ nhõm thở ra:
“Chúc anh thượng lộ bình an.”
Anh gật đầu, quay người rời đi:
“Có thời gian… cũng nên quay về một chuyến.”
“Vâng.” — Tôi đáp khẽ, tiếng nói tan vào trong gió.
Ba năm sau, tôi trở lại Kinh Đô.
Lúc hạ cánh đã là nửa đêm, tôi không ngờ vừa quay đầu lại liền thấy Kỷ Hoài Xuyên bước ra từ lối đi bên cạnh.
“Trùng hợp thật.” — Tôi buột miệng.
“Không trùng hợp đâu.” — Anh nhìn tôi, bình tĩnh nói. — “Tôi vừa đáp chuyến bay đêm từ Thụy Sĩ về.”
“……”
Vẫn là ánh mắt đó — kiên định, tập trung, đầy cố chấp.
Suốt mấy năm qua, tôi thỉnh thoảng cũng nghĩ về anh, nhưng vẫn không tài nào hiểu được, rốt cuộc là vào lúc nào, ở đâu, tôi lại khiến anh rung động.
Khi cuộc sống bị chiến tranh bào mòn từng phút từng giây, tình yêu sớm đã không còn là lựa chọn ưu tiên của tôi.
Vì thế, nghĩ thì cũng chỉ là nghĩ. Giống như uống một ngụm nước, rụng một sợi tóc — tự nhiên đến mức chẳng cần bận tâm.
Anh bỗng chạm nhẹ lên mu bàn tay tôi, rồi bắt đầu cởi áo khoác.
“Tại sao vậy?”
Khoảnh khắc đó, tôi đột nhiên thấy tò mò, muốn hiểu rõ.
“Không biết.”
“Cái gì cơ?”
Anh cuối cùng cũng choàng áo khoác của mình lên người tôi, rồi bất ngờ kéo mạnh hai vạt áo, quấn tôi gọn trong vòng tay anh.
Lồng ngực anh nóng rực, tim đập mạnh mẽ.
Tôi sững người.
Còn chưa kịp phản ứng, anh đã buông tay, lùi lại một bước.
“Chào mừng em trở về.” Anh nói.
“…Cảm ơn.”
“Mời tôi một bữa cơm đi.”
“Dựa vào đâu?”
“Dựa vào việc tôi hơn em vài tuổi, từng cứu em, còn ra sân bay đón em nữa.”
Tôi kinh ngạc — người gì đâu mà mặt dày quá thể.
“Tôi có nhờ anh ra sân bay đâu.”
“Anh nhờ đấy, nhờ Bồ Tát. Ngày ngày thắp hương, quỳ lạy, cầu suốt ba năm. Cho nên em phải mời cơm.”
Đúng là trơ trẽn hết thuốc chữa.
Nhưng cuối cùng tôi vẫn mời — không vì tình cảm, mà vì ơn cứu mạng, vì… tình bạn.